33 Ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm
Trong tiếng Phạn, Quán Thế Âm là अवलोकितेश्वर – Đấng Quán Chiếu Âm Thanh Của Thế Gian. Ngài là vị Bồ Tát đại diện cho lòng từ bi, yêu thương chúng sinh. Tượng của Ngài được thờ cúng rộng rãi tại Việt Nam. Theo các tài liệu Phật giáo, Bồ Tát Quán Thế Âm có 33 ứng thân và mỗi ứng thân của Ngài đều mang những câu chuyện và ý nghĩa riêng.
33 Ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm và Ý nghĩa
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ Tát trong Phật giáo Đại Thừa. Hạnh nguyện của Ngài cao cả, đó là từ bi cứu khổ cứu nạn. Khi chúng sinh gặp phải tai ách, hiểm nguy, phiền não, sầu muộn,… và một lòng niệm danh hiệu của Ngài thì Ngài sẽ nghe thấy và quán sát âm thanh, dùng sức mạnh huyền diệu để giúp chúng sinh giải thoát, có cuộc sống bình yên, an vui và hạnh phúc.
Theo Kinh Bát Nhã Ba-La-Mật, Bồ Tát Quán Thế Âm có tất cả là 32 ứng thân là thân Phật, Thanh Văn, Đế Thích, Đại Tự Tại, Tỳ Sa Môn, Trưởng Giả, Tể Quan, Tỳ Kheo, Ưu-Bà-Tắc, Phụ Nữ, Đồng Nữ, Long, Càn-Thát-Bà, A-Tu-La, Ma-Hầu-La-Già, Phi Nhân, Bích Chi (Duyên Giác), Phạm Vương, Đại Tự Tại Thiên, Thiên Đại Tướng Quân, Tiểu Vương, Cư Sĩ, Bà-La-Môn, Tỳ Kheo Ni, Ưu-Bà-Di, Đồng Nam, Thiên, Dạ Xoa, Ca-Lâu-La, Khẩn-Na-La, Nhân và Thần Chấp Kim Cang.
Trong một ghi chép khác thì hiện nay, ứng hoá hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm là 33. Sự thay đổi này là dựa vào nhiều yếu tố, chủ yếu là sự kết hợp giữa tư tưởng hoá độ lục đạo và 32 ứng thân trong Kinh sách, đồng thời pha trộn thêm tín ngưỡng dân gian ở Trung Quốc, Nhật Bản,…
33 Ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm bao gồm Dương Liễu Quán Âm, Long Đầu Quán Âm, Trì Kinh Quán Âm, Viên Quang Quán Âm, Du Hý Quán Âm, Bạch Y Quán Âm, Liên Ngọa Quán Âm, Lang Kiến Quán Âm, Thí Dược Quán Âm, Ngư Lam Quán Âm, Đức Vương Quán Âm, Thuỷ Nguyệt Quán Âm, Nhất Diệp Quán Âm, Thanh Cảnh Quán Âm, Uy Đức Quán Âm, Diên Mạng Quán Âm, Nham Hộ Quán Âm, Năng Tĩnh Quán Âm, A Nậu Quán Âm, Diệp Y Quán Âm, Lưu Ly quán Âm, Đa La Quán Âm, Cáp Lỵ Quán Âm, Lục Thời Quán Âm, Phổ Bi Quán Âm, Mã Lang Phụ Quán Âm, Hiệp Chưởng Quán Âm, Bất Như Quán Âm, Bất Nhị Quán Âm,Trì Liên Quán Âm và Sái Thuỷ Quán Âm.
1. Dương Liễu Quán Âm
Dương Liễu Quán Âm (Dược Vương Quán Âm) là ứng thân Quán Thế Âm Bồ Tát mặc y phục màu trắng, ngồi trang nghiêm ở trên tảng đá bên cạnh dòng nước, một tay cầm cành dương liễu mềm mại, tay còn lại nâng thanh tịnh bình hoặc mở lòng bàn tay đặt phía trước ngực.
Hình ảnh này tượng trưng cho sự ôn hòa và nhẫn nhục, đồng thời thể hiện sự kỳ nguyện về phước đức. Chúng sanh gặp nhiều khổ nạn, Quán Thế Âm Bồ Tát nguyện rằng bạt trừ cứu độ, giúp chúng sanh tiêu trừ bệnh khổ, thoát khỏi lầm than, có cuộc sống an lành và tốt đẹp.

Dương Liễu Quán Âm
2. Long Đầu Quán Âm
Ứng thân Long Đầu Quán Âm gắn liền với hình ảnh Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi kiết già ở trên lưng rồng hoặc đứng thẳng phía trên đầu rồng để thuyết pháp cho chúng sinh. Trên tay là cành dương liễu hoặc thanh tịnh bình dùng để cứu độ thế gian. Xung quanh là những áng mây trời.
Trong muôn thú, rồng được xem là vua, đại diện cho uy lực của Ngài. Đồng thời, rồng cũng là vị thần ngự trị biển cả, đi đến đâu sẽ tạo ra mây mưa sấm chớp đến đó, chiếu diệu từ trời đến đất, muôn vật cũng được thấm nhuần. Hình ảnh Bồ Tát Quán Thế Âm ngự rồng mang ý nghĩa là nguyện cầu được Ngài dìu dắt giúp chúng sinh thoát khỏi biển khổ và sông mê, tìm được sự bình yên, an vui.

Long Đầu Quán Âm
3. Trì Kinh Quán Âm
Trì Kinh Quán Âm có tên khác là Thanh Văn Quán Âm (tiếng Phạn là sràvaka) với “Thanh Văn” được hiểu là xuất gia từ việc khai ngộ sau khi nghe thuyết pháp của Phật. Trong các tài liệu Phật giáo cũng có ghi chép rằng “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liên hiện thân Thanh Văn mà vì đó nói pháp”.
Ứng thân này của Quán Thế Âm Bồ Tát mang ý nghĩa là sự an tường với sắc thái đặc trưng là Ngài ngồi ở trên một tảng đá ghồ ghề và tay phải cầm quyển kinh, còn tay trái đặt ngay ngắn phía trên đầu gối. Thân tướng Ngài đoan nghiêm, gương mặt thanh thoát và uy nghi, thể hiện rằng Ngài đang quán chiếu chúng sinh.

Trì Kinh Quán Âm
4. Viên Quang Quán Âm
Viên Quang Quán Âm là 1 trong 33 ứng thân của Quán thế Âm Bồ Tát. Thân Ngài được cảm thọ thông qua đoạn kinh “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”, hiện tướng thuyết giáp.
Ngài xuất hiện trong tư thế toạ thiền uy nghiêm ở trên một mỏm núi đá hùng vĩ, hai tay chấp lại, xung quanh là ánh sáng hào quang Phật pháp rực rỡ. Hình ảnh này đại diện cho tình thương tròn đầy mà Bồ Tát Quán Thế Âm dành cho chúng sinh, đồng thời cho tượng trưng cho ánh quang minh quanh thân, mang ý nghĩa về lòng từ ái viên mãn.

Viên Quang Quán Âm
5. Du Hý Quán Âm
Ứng thân Du Hý Quán Âm được thể hiện với thân màu hồng, ngồi trên mây ngũ sắc, tay phải làm động tác chống đỡ thân mình, còn đầu gối trái thì dựng thẳng và tay trái đặt ở trên, ngoảnh mặt quan sát chúng sanh một cách chăm chú. Đây là tướng du hý tự tại, “viên thông vô ngại”, nghĩa là khi giáo hóa chúng sanh Ngài không nệ về thời gian, địa điểm,…
Một số tài liệu Phật giáo cho rằng, những miêu tả về ứng thân này và đoạn Kinh trong Phẩm Phổ Môn nói về Bồ Tát Quán Thế Âm đã cứu giúp khi chúng sinh gặp nạn và bị rớt xuống núi có sự liên quan: “Hoặc bị kẻ ác rượt, Rớt xuống núi Kim Cương, Do sức niệm Quan Âm, Chẳng mất một mảy lông”.

Du Hý Quán Âm
6. Bạch Y Quán Âm
Bạch Y Quán Âm (tiếng Phạn là Pàndaravasinì) được biết đến với nhiều tên gọi như Đại Bạch Y Quán Âm, Bạch Xứ Quan Âm, Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Bạch Xứ Tôn Bồ Tát, Phục Bạch Y Quan Âm, … Trong các tài liệu ghi chép, Ngài là Liên Hoa Bộ Mẫu của Nhân Mạn-đồ-la (Mạn-đồ-la Thai Tạng giới) với mật hiệu Ly Cấu Kim Cương. Chúng sinh tôn kính, lễ bái Ngài cầu cho tiêu trừ tai ách và có được sức khoẻ, sự trường thọ.
Hình tượng của Bạch Y Quán Âm là toàn thân màu trắng, mặc y trắng mềm mại, ngồi kiết già ở trên đài hoa trắng. Đầu Ngài đội mũ kết từ tóc và có thêm khăn trắng phía trên, tay phải kết dữ nguyện ấn, trên tay trái là hoa sen trắng nở rộ. Hình tượng này có màu trắng đặc trưng, vừa đại diện cho Tâm Bồ Đề, vừa tượng trưng cho sự Thanh Tịnh.

Bạch Y Quán Âm
7. Liên Ngọa Quán Âm
Trong 33 ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, Liên Ngoạ Quán Âm được cho rằng là thân Tiểu Vương. Điều này cũng được đề cập trong Phẩm Phổ Môn. Ngài phát nguyện giúp đỡ các tín đồ Phật giáo, một là thân tâm và tướng mạo cao quý, hai là có được sự từ bi, độ lượng và lòng trắc ẩn trong thân tâm.
Liên Ngoạ Quán Âm được miêu tả ngồi kiết già hiệp trưởng, toàn thân mặc thiên y, đầu đội mão hoa, đeo vòng anh lạc ở trên cổ, gương mặt hiền từ, nhu hoà, ánh mắt từ bi nhìn về chúng sinh. Ứng thân này của Ngài tượng trưng cho sự an nhiên và tao nhã, giống như bậc Đế Vương, bản thân quyền quý nhưng chấp nhận buông bỏ chấp niệm mà ngự toạ ở trên đài hoa sen.

Liên Ngọa Quán Âm
8. Lang Kiến Quán Âm
Phi Bộc Quán Âm Bồ Tát, Lũng Kiến Quán Âm, Long Kiến Quán Âm đều là những tên gọi khác của Lang Kiến Quán Âm – một ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Đặc trưng của ứng thân này là Ngài ngồi tựa vào vách núi, quán thác nước đổ với nhiều tâm tư, mà tâm tư như “tinh thần” dòng nước. Nước mềm mại, đá cứng chắc, nhưng nước có thể làm mài mòn đá và xuyên thủng; nước suối nếu chảy từ trên cao xuống sẽ rất lớn nên dù nhỏ cũng sẽ trở thành sâu rộng.
Nhiều ý kiến cho rằng, ngoài ý nghĩa trên, ứng thân Lang Kiến Quán Âm còn biểu thị cho lời kinh được ghi chép trong Phẩm Phổ Môn, đó là “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”. Có thể hiểu rằng khi chúng sinh chẳng may bị xô xuống hầm lửa lớn thì hãy xưng niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, Ngài sẽ ứng thân xuất hiện cứu giúp, biến lửa thành ao.

Lang Kiến Quán Âm
9. Thí Dược Quán Âm
Thí Dược Quán Âm (Thi Lạc Quán Âm) ngồi bên tảng đá cạnh bờ ao, tay trái đặt ngang hông, tay phải thì chống gò má, ánh mắt chăm chú nhìn hoa sen bên dòng nước mà cảm thương cho chúng sinh mang nhiều bệnh khổ.
Trong Phẩm Phổ Môn có bài kệ “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy” và đoạn kinh văn “Hoặc ở ngọn Tu Di, Bị người xô té xuống, Do sức niệm Quan Âm, Như mặt Trời trên không” nói về ứng thân Thí Dược Quán Âm của Bồ Tát Quán Thế Âm. Ngài ban bố lương dược, giúp chúng sinh trị bệnh khổ về thân và tâm.

Thí Dược Quán Âm
10. Ngư Lam Quán Âm
Ngư Lam Quán Âm (Quán Âm Trúc Lộc Ly) có hai hình tướng là cầm giỏ cá bằng trúc cùng với cành lá đứng ở trên sông, hoặc cưỡi cá lớn. Hình tướng này bắt nguồn từ câu chuyện Bồ Tát Quán Thế Âm hoá thân thành cô gái bán cá để có ngân sách xây cầu, giúp người đi sông không gặp nạn. Theo đó, Ngài cầm giỏ cá, ai ném trúng thì sẽ cưới được chồng, nếu không trúng thì đóng góp một khoản tiền, kết quả rất nhiều người mang tiền đến và không ai ném trúng, tiền chất thành đống, cao che mất hình dáng của Ngài, đến khi nhìn lại thì thấy Ngài hoá thân và đứng trên sông.
Ý kiến khác cho rằng, hình tướng Ngự Lam Quán Âm lại tượng trưng cho một đoạn kinh văn ở trong Phẩm Phổ Môn: “Hoặc gặp La Sát dữ; Rồng độc, các loài Quỷ; Do niệm sức Quan Âm; Chúng đều không dám hại”. Điều này có nghĩa là Ngài giúp tiêu trừ mọi chướng ngại của Quỷ ác, La Sát dữ và Rồng độc để chúng sinh có cuộc sống bình yên.

Ngư Lam Quán Âm
11. Đức Vương Quán Âm
Đức Vương Quán Âm có hình tướng là ngồi kiết già ở trên một tảng đá. Ngài đội mũ quan, tay trái đặt trên gối, còn tay phải cầm cành dương liễu hoặc cành lá xanh.
Trong Phẩm Phổ Môn nhắc đến Đức Vương Quán Âm như sau: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Ý chỉ Bồ Tát Quán Thế Âm hoá thân Phạm Vương. Phạm Vương là chủ của cõi trời sắc giới với công đức rất lớn, đức ấy thù thắng, vì vậy được gọi là Đức Vương.

Đức Vương Quán Âm
12. Thủy Nguyệt Quán Âm
Trong các tài liệu Phật giáo ghi chép, Thuỷ Nguyệt Quán Âm là Thuỷ Cát Tường Quan Thế Âm Bồ Tát được nhắc đến nhiều trong Thai Tạng Mạn Trà La. Mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cang và sở hữu nhất tâm quán thuỷ tướng – nhập thuỷ định.
Tương truyền, ở thời điểm Cô Tô bị hoành hành bởi nạn đao binh, hàng vạn người dân bị tàn sát, oan hồn vất vưởng khắp nơi không chốn đi về. Trước tình cảnh đau thương như thế, Thuỷ Nguyệt Quán Âm đã xuất hiện. Với tâm từ bi, lòng trắc ẩn, tình yêu thương dành cho chúng sinh, Ngài thi thố pháp lực, giúp oan hồn siêu thoát, không còn cảnh khổ ách.
Hình tướng của Thuỷ Nguyệt Quán Ân trong tâm thức của chúng sinh là đứng trên cánh sen trôi nhẹ nhàng trên mặt nước tĩnh lặng, phía trên là ánh trăng nhu hoà, tạo nên một khung cảnh nên thơ. Tay phải của Ngài kết thí vô uý thủ ấn và đặt bình cam lộ ở trên theo hướng trút xuống dưới và từ đây chảy ra dòng nước trong lành, còn tay trái cầm cành hoa sen tinh khôi.
Ngoài hình tướng trên, Thuỷ Nguyệt Quán Âm còn được miêu tả với một hình tướng khác. Đó là giữa biển lớn mênh mông, Ngài ngồi kiết già ở trên tảng đá, chân trái duỗi thẳng xuống, chân phải đưa đầu gối vắt chéo lên trên. Ngài ngước mặt lên trên, giống như đang tư duy, suy nghĩ.

Thủy Nguyệt Quán Âm
13. Nhất Diệp Quán Âm
Nhất Diệp Quán Âm (Nam Minh Quan Âm, Liên Diệp Quan Âm,…) là hình tướng thứ 13 trong 33 ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Ngài ngồi trên cánh hoa sen giữa mặt nước, đầu gối chân trái dựng thẳng và tay trái đặt phía trên, bên phải tay duỗi xuống trong tư thế đỡ thân hình, ánh mắt nhìn xa xăm theo dòng nước và suy tưởng về chốn địa ngục tối tăm, không được soi chiếu bởi ánh sáng.
Trong Phẩm Phổ Môn nhắc đến Nhất Diệp Quán Âm bằng đoạn kinh văn: “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”.
Nhất Diệp Quán Âm cũng xuất hiện trong các câu chuyện kể được lưu truyền muôn đời. Chuyện kể rằng, Đạo Nguyên – một Tăng nhân người Nhật đã gặp phải bão lớn khi trên đường đi thuyền trở về quê hương. Trước tình huống ấy, Tăng nhân quyết định trốn vào núi Nam Minh và thành tâm khấn nguyện, sau đó thì thấy Đại Bi Tôn xuất hiện trên biển, lập tức trời yên biển lặng. Nhớ ơn của Quan Âm, khi lên bờ, Tăng nhân đã khắc tượng Ngài theo những gì mình nhìn thấy và đặt trong chùa Nam Minh Quan Âm để thờ phụng.

Nhất Diệp Quán Âm
14. Thanh Cảnh Quán Âm
Thanh Cảnh Quán Âm còn được gọi với một số tên khác như Thanh Đầu Quan Âm, Quán Âm Thanh Đỉnh,… Ngài ngồi trong tư thế kiết già ở trên bệ đá tại sườn dốc gãy, tay phải ngửa mở lòng hướng lên trên đặt trên chân phải dựng đứng gối và tay trái cầm cành hoa sen hoặc vịn vào vách núi.
Tương truyền, các vị thần Thấp-bà (S’iva) đã khuấy động nhũ hải để tìm lấy cam lộ, vô tình phát hiện lọ thuốc độ ở trong biển. Bởi vì sợ chúng sinh bị hại bởi thuốc độc, Ngài với tâm đại từ bi đã uống hết thuốc độc, khiến cho mọi bất thiện và uế ác trong thuốc độc thích tụ biến cổ mình chuyển thành màu xanh. Cái tên Thanh Cảnh cũng từ đó mà có.

Thanh Cảnh Quán Âm
15. Uy Đức Quán Âm
Uy Đức Quán Âm được nhắc đến trong Phẩm Phổ Môn thông qua đoạn kinh: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đăng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân vì đó mà thuyết pháp”. Trong đó, Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy và đức nên Bồ Tát Quán Thế Âm ứng thân thành Ngài để chiết phục, yêu thương hộ trì chúng sinh.
Uy Đức Quán Âm có hình tướng là ngồi ở trên tảng đá hoặc đứng trên mỏm núi và nhìn theo dòng nước. Tay phải của Ngài cầm cành hoa sen, biểu trưng cho sự từ bi và bác ái. Trên tay trái là chày kim cang, đại diện cho uy thế, giúp chiết phục tâm cang cường chúng sanh.

Uy Đức Quán Âm
16. Diên Mạng Quán Âm
Diên Mạng Quán Âm được miêu tả là có tướng tốt từ bi và nhu hoà, đầu đội bảo quan, cổ đeo chuỗi ngọc, thân mặc thiên y, gương mặt anh lạc trang nghiêm. Ứng thân này của Bồ Tát Quán Thế Âm đặc biệt hơn những ứng thân khác là có 20 cánh tay, Ngài sẽ dìu dắt, cứu hộ chúng sinh.
Trong ghi chép của Phẩm Phổ Môn: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở lại nơi bổn nhơn” mang ý nghĩa Ngài sẽ tiêu trừ độc dược, chú thuật nguyền rủa,… giúp chúng sinh thọ mạng, sống lâu.

Diên Mạng Quán Âm
17. Chúng Bảo Quán Âm
Trong Phẩm Phổ Môn nhắc về ứng thân Chúng Bảo Quán Âm của Bồ Tát Quán Âm: “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”.
Hình tướng Chúng Bảo Quán Âm tượng trưng cho sự an ổn với thân Trưởng Giả. Ngài ngồi ở trên tảng đá tại dốc núi, chân trái dựng đầu gối và tay trái đặt phía trên, chân phải duỗi thẳng, tay phải ấn xuống mặt đất.

Chúng Bảo Quán Âm
18. Nham Hộ Quán Âm
Ứng thân Nham Hộ Quán Âm của Bồ Tát Quán Thế Âm được thể hiện trong tư thế ngồi tĩnh toạ đoan nghiêm trên hoa sen bên trong hang đá, ánh nhìn về hướng mặt nước và tự tại thưởng thức. Ngài ở đó, tạo ra ánh sáng và cứu độ hộ trì giúp chúng sinh thoát khỏi nguy hiểm mỗi khi qua núi.
Điều này đã được ghi chép trong Phẩm Phổ Môn với đoạn kinh văn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Ý chỉ rằng, trùng độc, chướng khí,… trong hang động tối tăm luôn luôn có, khi gặp nạn, hãy niệm danh hiệu của Ngài thì sẽ được bình an.

Nham Hộ Quán Âm
19. Năng Tĩnh Quán Âm
Năng Tĩnh Quán Âm được xem là thần thủ hộ ở trên biển. Trong Phẩm Phổ Môn nhắc đến như sau: “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngồi chẳng chìm đặng”. Theo đó, Ngài sẽ cứu giúp thủ hộ để những người gặp nạn thoát khỏi nguy hiểm và được an ổn.
Về hình tướng của Năng Tĩnh Quán Âm, Ngài được thể hiện trong tướng tĩnh lặng, ngồi ở trên tảng đá bên cạnh bờ biển và đặt hai tay lên phía trên mỏm đá.

Năng Tĩnh Quán Âm
20. A Nậu Quán Âm
A Nậu Quán Âm là ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm với hình tướng ngồi đoan nghiêm ở trên bệ đá và mắt nhìn đại hải, quán sát động tĩnh của biển lớn. Ngài mặc thiên y vàng, đầu búi tóc thiên kế, tay phải đặt trên đầu gối phải và tay phải thì cầm mảnh y ở phía trước bụng.
Trong Phẩm Phổ Môn, A Nậu Quán Âm có thề nguyện rằng “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hạnh nguyện của Ngài là xua tan hiểm nạn, giúp chúng sinh không còn gặp tai ương khi đi biển.

A Nậu Quán Âm
21. Vô Úy Quán Âm
Vô Uý Quán Âm hay còn được gọi là Khoang Quảng Quán Âm, A-ma-lai Quán Âm hoặc A-ma-đề Quán Âm. Ngài được miêu tả với hình tướng là ngồi đoan nghiêm ở trên lưng sư tử màu trắng, chân phải buông xuống, chân trái đặt phía đỉnh đầu của sư tử, mặc thiên y, đeo anh lạc, đầu đội bảo quan, gương mặt tròn đầy toát lên vẻ từ bi, ánh mắt nhìn về hướng bên trái, khắp thân phát ra ánh sáng hào quang. Đặc biệt, Ngài có 3 mắt và 4 tay, 2 tay trái cầm con cá và pháp khí được làm theo hình con phượng ba đầu, 2 tay phải cầm chim cát tường trắng và hoa sen trắng.
Trong Nghi Quỹ ghi chép như sau: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Ý nghĩa là Vô Uý Quán Âm sở hữu sức uý thần lớn, Ngài sẽ vào địa ngục để cứu độ và giúp chúng sinh thoát khỏi phiền não, khổ đau.

Vô Úy Quán Âm
22. Diệp Y Quán Âm
Ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm – Diệp Y Quán Âm được người nông dân tôn kính, thờ cúng, đảnh lễ cầu cho vụ mùa bội thu, không bị nạn tai, dịch bệnh,… hoành hành. Ngoài ra, Ngài còn giúp chúng sinh tu tập, an trấn phòng ốc và tiêu trừ bệnh tật để được khoẻ mạnh, trường thọ.
Tượng Diệp Y Quán Âm được thể hiện trong tư thế toạ trên hoa sen, mặc áo lá sen, chuỗi ngọc đính kết quanh thân, sử dụng trang sức vòng xuyến, trên đầu đội mũ báu có hình ảnh của Đức Phật Vô Lượng Thọ, toàn thân toả sáng với quần lửa vây quanh. Ngài có tổng cộng 4 tay, 2 tay trái cầm búa và quyển sách hoặc sợi dây, 2 tay phải kết ấn Thí Nguyện và cầm quả hoặc lá cát tường đặt phía trước ngực.

Diệp Y Quán Âm
23. Lưu Ly Quán Âm
Có ý kiến cho rằng, Lưu Ly Quán Âm (Cao Vương Quán Âm) là vị Bồ Tát cứu giúp chúng sinh thoát khỏi khổ ách. Tương truyền, nếu gặp phải nạn ách một cách bất chợt, thành tâm trì tụng kinh 1000 biến có thể giúp thoát chết trong gang tấc.
Chuyện kể rằng, vào năm Thiên Bình thuộc thời Bắc Nguỵ có Tôn Kính Đức – một dũng sĩ sống tại vùng Định Châu được phân bổ làm thái thú, đảm nhận nhiệm vụ trấn giữ biên cương. Trong thời gian đó, ông đã cho xây dựng tượng Bồ Tát Quán Thế Âm để tôn thờ và lễ bái mỗi ngày. Sau này khi Ông gặp nạn, bị nghi oan là đồng loã của giặc cướp, phải chịu án cực hình thì trong thời gian chờ thi hành án, Ông đã nằm mộng thấy Thầy Sa Môn, Ngài dạy Ông trì tụng kinh “Diên Mạng Thấp Cú Quán Âm” 1000 lần. Ông làm theo và kết quả là trong ngày xử tử, 3 lần đao chém vào Ông đều gãy, cơ thể không phải chịu bất kỳ tổn thương nào. Đây là điều từ xưa đến giờ chưa từng xảy ra nên Ông đã được Quan miễn cho tội chết. Khi trở về, Ông đã lễ bái Bồ Tát để cảm tạ và nhìn thấy có 3 vết đao chém mới trên đỉnh đầu của tượng, giống như tượng đã chịu thay Ông.
Hình tướng Lưu Ly Quán Âm được thể hiện thông qua hình ảnh đứng trên cánh sen trong tư thế vân du giáo hoá khắp sông nước. Đặc trưng của hình tướng này là hai tay nhẹ nhàng nâng bình Lưu Ly màu xanh.

Lưu Ly Quán Âm
24. Đa La Quán Âm
Theo các tài liệu Phật giáo, mật hiệu của Đa La Quán Âm (Cứu Độ Mẫu Quán Âm) là Hạnh Nguyện Kim Cương. Ngài cai trị phương Tây Mạ-đồ-la Thai Tạng Giới. Hạnh nguyện là diệt trừ khổ não để chúng sinh ở thế gian được hoan hỷ và an vui, đặc biệt là có thể nhập tự tính pháp giới Chư Phật.
Đa La Quán Âm được miêu tả là có tướng phụ nữ, đầu búi tóc, mặc y áo trắng, đeo anh lạc ở trước ngực, toàn thân trắng xanh, gương mặt từ bi, miệng mỉm cười, hào quang tròn bao phủ xung quanh và toả sáng rực rỡ. Ngài đứng thẳng và cưỡi trên mây hoặc ngồi ở trên bệ quán sát chúng sinh, hai tay hiệp chưởng, kết ấn Đà-la tôn và cầm hoa sen xanh.
Trong Phẩm Phổ Môn nhắc đến Đa La Quán Âm bằng đoạn văn sau: “Hoặc bị oán tặc vây, Cầm đao kiếm hãm hại, Do sức niệm Quan Âm, Chúng đều sinh lòng lành”. Ngoài ra, còn có các ghi chép khác như: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”.

Đa La Quán Âm
25. Cáp Lỵ Quán Âm
Cáp Lỵ Quán Âm hay Cáp Lợi Quán Âm đều là một. Đặc trưng của ứng thân này là Bồ Tát Quán Thế Âm ngồi trang nghiêm bên trong vỏ sò, tay phải bắt ấn ngang bụng, tay còn lại cầm cành dương liễu và hướng các ngón tay lên phía trên.
Liên quan đến Cáp Lỵ Quán Âm có nhiều chuyện kể. Trong đó phổ biến nhất câu chuyện xảy ra ở thời nhà Đường của Trung Quốc. Vua Đường Văn Tông bởi vì thích ăn sò nên khi không thể tách mở sò dù đã dùng hai tay nên đã thắp hương cầu nguyện. Kết thúc một tuần hương, từ con sò Bồ Tát đã hiện ra. Chuyện này vô cùng kỳ lạ, Vua đã cho gọi Thiền Sư vào cung để được giải đáp. Thiền Sư trả lời rằng: “Vật này linh ấn bởi lòng tin của bệ hạ rộng lớn. Kinh Phật có giảng: đáng dùng thân nào được độ thoát thì dùng thân ấy mà nói pháp cho họ”. Điều này có nghĩa là Bồ Tát đang hiện thân, thuyết giáp cho Vua. Nghe những lời từ Thiền Sư, Vua cảm thấy rất hoan hỷ và quyết định lập chiếu tôn thờ tượng Bồ Tát ở tất cả chùa viện khắp thiên hạ.

Cáp Lỵ Quán Âm
26. Lục Thời Quán Âm
Tên gọi ứng thân Lục Thời Quán Âm của Bồ Tát Quán Thế Âm mang ý nghĩa là ngày đêm sáu thời (tiệm nhiệt thời – mùa nóng nhanh, vũ thời – mùa mưa, tiệm hàn thời – mùa se lạnh, thịnh nhiệt thời – mùa nóng gắt, mậu thời – mùa tốt tươi và thịnh hàn thời – mùa cực lạnh) đều thương xót, phù hộ độ trì cho chúng sinh, hay còn có thể hiểu là “Thường thị chúng sanh Quán Âm”.
Hình tướng của Lục Thời Quán Âm là đứng uy nghi trên đài hoa sen có mây và tay cầm Phạm Khiếp (rương kinh Phạn, bên trong là Lục Tự Chương Cú Đà La Ni). Theo đó, chúng sinh muốn được Ngài dẫn đường để vừa thoát khỏi nổi đau trong lục lộ, vừa thấu lục diệu môn, vừa chứng được lục căn mà tương ứng với bản thân thì hãy trì tụng Đà-la-ni.

Lục Thời Quán Âm
27. Phổ Bi Quán Âm
Trong các ghi chép Phật giáo có đoạn” “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, Ngài liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên vì đó mà nói pháp”. Đoạn này có thể hiểu là Bồ Tát Quán Thế Âm có lòng từ bi cùng với uy đức to lớn, yêu thương và phổ độ cho chúng sinh ở khắp 3000 đại thiên thế giới, vì vậy gọi ứng thân này của Ngài là Phổ Bi Quán Âm.
Phổ Bi Quán Âm được thể hiện trong hình tướng đứng trên núi, mặc y trắng và tay trái tay phải cùng nắm pháp y rũ xuống hướng về phía trước hoặc buông thỏng xuống và giấu bên trong áo pháp.

Phổ Bi Quán Âm
28. Mã Lang Phụ Quán Âm
Mã Lang Phụ Quán Âm dịch sát nghĩa là Quán Âm vợ chàng họ Mã. Truyền thuyết kể rằng, một cô gái sở hữu nhan sắc tuyệt trần sống ở thời nhà Đường (Quảng Tây, Trung Quốc) đã chọn chồng thông qua hình thích đọc thuộc làu Phẩm Phổ Môn, Kinh Kim Dương và Kinh Pháp Hoa. Kết quả là trong số rất nhiều người lần lượt chọn được 28 người, sau đó chọn ra tiếp 10 người và cuối cùng chỉ có duy nhất chàng trai họ Mã có thể thực hiện được tất cả. Lễ cưới được diễn ra, nhưng lại không trọn vẹn, bởi nàng đột nhiên qua đời vì lâm bệnh khi vừa bước tới cổng nhà của chàng trai. Thân thể Nàng được an táng, sau khi hoàn tất thì vào một ngày kia, có một vị lão Tăng khi đi ngang qua đã vào thăm hỏi, cũng như ngỏ ý khai mộ lên và bên trong là xương cốt bằng vàng. Xuất phát từ mong muốn cảm hoá chúng sinh, Bồ Tát Quán Thế Âm đã ứng thân trong hình tướng này.
Truyền thuyết trên cũng lý giải tại sao hình tướng Mã Lang Phụ Quán Âm lại là một cô gái trẻ trung xinh đẹp, trên tay trái là gậy xương người kèm theo đầu lâu và tay còn lại cầm quyển kinh Pháp Hoa.

Mã Lang Phụ Quán Âm
29. Hiệp Chưởng Quán Âm
Hiệp Chưởng Quán Âm hay Hợp Chưởng Quán Âm là vị Bồ Tát là vị Bồ Tát tượng trưng cho việc tu thiện và tích đức để đắt thành chánh quả. Hình ảnh của Ngài trong tâm trí chúng sinh là đứng ở trên đài sen, mặc y trắng, tay phải và tay trái chắp thành hiệp chưởng, gương mặt hiền từ, ánh mắt quán sát thế gian.
Một đoạn trong Phẩm Phổ Môn nói về Hiệp Chưởng Quán Âm như sau: “Nếu có chúng sanh phần nhiều ham dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm sẽ thoát khỏi dâm dục. Nếu người mang nhiều sâu hận, cung kính niệm Quán Thế Âm thì sẽ lìa xa si hận. Nếu người ngu si cung kính niệm Quán Thế Âm ắt sẽ thoát vòng ngu si”.

Hiệp Chưởng Quán Âm
30. Nhất Như Quán Âm
Tên gọi ứng thân Nhất Như Quán Âm được phân tích với hai tầng nghĩa. Nhất Như là bất nhị, bất dị. Dịch tiếp bất nhị, bất dị tương đồng với Chơn Như – sự vô ngại biến mãn ở khắp pháp giới.
Hình tướng của Nhất Như Quán Âm là cưỡi kỳ lân bay trên mây trong hư không hoặc an toạ trang nghiêm ở trên đài hoa sen trên mây, chân trái dựng đứng gối, thực hiện thu phục tất cả lôi diện và sấm sét.
Phẩm Phổ Môn đề cập đến Nhất Như Quán Âm với đoạn kinh văn: “Mây sấm nổ, sét đánh; Tuôn mưa đá, mưa lớn; Do sức niệm Quan Âm; Nên liền tiêu tan cả”. Diệu trí lực của Ngài là quán pháp nhất như.

Nhất Như Quán Âm
31. Bất Nhị Quán Âm
Bất Nhị Quán Âm là vị Bồ Tát đại diện cho Bản Tích Bất Nhị. Trong Phẩm Phổ Môn ghi chép rằng: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”, ý nói Ngài vừa là vị thủ hộ của Phật, khi cần sẽ hiện thân để thuyết pháp giúp chúng sinh hoá độ đồng thời cũng là ứng hoá thân cho Phật, tức là song song làm Bản Địa Môn và Thuỳ Tích Môn.
Bất Nhị Quán Âm được miêu tả trong tư thế đứng phía trên lá sen, bên dưới là mặt nước tĩnh lặng. Tay trái và tay phải của Ngài duỗi thẳng và đan lại, hay còn gọi là chấp trì kim cang xử, tạo nên sự thong dong và an tường.

Bất Nhị Quán Âm
32. Trì Liên Quán Âm
Ứng thân Trì Liên Quán Âm là hình ảnh Quán Thế Âm Bồ Tát thân khoác thiên y, đầu đội bảo quan, đứng trên lá sen, hai tay cầm hoa sen tạo thành liên hoa thủ (Padmapàni). Đây là một hình tướng trang nghiêm, viên mãn, đồng thời thể hiện được bổn thiện của Ngài. Mặt khác, hoa sen cũng có duyên đặc biệt với Ngài và trong Phật giáo, loài hoa này ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Trì Liên Quán Âm
33. Sái Thủy Quán Âm
Ứng thân Sái Thuỷ Quán Âm được biết đến với hình ảnh Quán Thế Âm Bồ Tát đứng ở trên mây trắng, thân mặc thiên y, hai tay cầm tán trượng và chén nước thơm – pháp tu tụng niệm. Trong các tài liệu ghi chép lại, nước thơm có thể giúp tâm trí thanh tịnh, Ngài muốn dùng loại nước này để giúp chúng sanh khai ngộ Phật tánh (bản tánh của tâm), không bị trói buộc bởi tham, sân, si.
Cụ thể, Phẩm Phổ Môn nhắc đến như sau: “Nếu có người bị nước lớn cuốn trôi, hễ xưng niệm danh hiệu Ngài liền gặp chỗ cạn”. Và trong một thuyết khác đề cập rằng: “Lòng Bi như sấm chớp, Ý lành diệu tựa mây, Tuôn mưa nước Cam lộ, Dứt trừ lửa phiền não”.

Sái Thủy Quán Âm
Kết lại, tuy khác nhau về hình tướng, ý nghĩa, hạnh nguyện,… nhưng 33 ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm cũng đều là Ngài. Khi thờ cúng, dù là bức tượng nào, hay khi đến đâu gặp ứng thân của Ngài, cũng cần có sự tôn kính và thành tâm để được Ngài yêu thương, che chở, cứu giúp thoát khỏi phiền não, khổ đau, tai ách, bệnh tật, có cuộc sống bình yên, an vui, hạnh phúc, khoẻ mạnh và trường thọ.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM:
Khách hàng phản hồi